Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
![]() | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Kabul 33°B 66°Đ / 33°B 66°Đ[10] |
Ngôn ngữ chính thức | |
Sắc tộc | |
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư | Afghan[a][8][9] |
Chính trị | |
Chính phủ | Nhà nước Hồi giáo thần quyền đơn nhất độc tài toàn trị |
Hibatullah Akhundzada | |
Abdul Kabir (quyền) | |
• Phó Thủ tướng thứ nhất | Abdul Ghani Baradar (quyền) |
• Phó Thủ tướng thứ hai | Abdul Salam Hanafi (quyền) |
Lập pháp | Quốc hội |
• Hạ viện | Hội đồng lãnh đạo |
Lịch sử | |
Hình thành | |
1709 | |
1747 | |
1823 | |
19 tháng 8 năm 1919 | |
9 tháng 6 năm 1926 | |
17 tháng 7 năm 1973 | |
7 tháng 9 năm 1996 | |
26 tháng 1 năm 2004 | |
15 tháng 8 năm 2021 | |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 652,864 km2 (hạng 40) 252 mi2 |
• Mặt nước (%) | không đáng kể |
Dân số | |
• Ước lượng 2020 | 31.390.200[11] (hạng 44) |
• Mật độ | 48,08/km2 (hạng 174) 119/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2018 |
• Tổng số | $72,911 tỷ[12] (hạng 96) |
$2.024[12] (hạng 169) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2018 |
• Tổng số | $21,657 tỷ[12] (hạng 111) |
• Bình quân đầu người | $493[12] (hạng 177) |
Đơn vị tiền tệ | Afghani (افغانی) (AFN) |
Thông tin khác | |
Gini? (2008) | ![]() thấp |
HDI? (2019) | ![]() thấp · hạng 169 |
Múi giờ | UTC+4:30 Lịch Solar (D†) |
Giao thông bên | phải |
Mã điện thoại | +93 |
Mã ISO 3166 | AF |
Tên miền Internet | .af افغانستان. |
Afghanistan (/æfˈɡænɪstæn,
Con người đã sống ở khu vực ngày nay là Afghanistan ít nhất 50.000 năm trước.[16] Con người định cư xuất hiện trong khu vực này cách đây 9.000 năm, phát triển dần dần thành nền văn minh lưu vực sông Ấn (địa điểm Shortugai), nền văn minh Oxus (địa điểm Dashlyji), và nền văn minh Helmand (địa điểm Mundigak) trong giai đoạn thiên niên kỷ thứ 3 TCN.[17] Người Ấn-Arya di cư từ khu vực Bactria - Margiana đến Gandhara, tiếp theo là sự trỗi dậy của nền văn hóa Yaz I trong thời kỳ đồ sắt (khoảng 1500–1100 TCN),[18] đã gắn liền với nền văn hóa được mô tả trong Avesta, văn bản tôn giáo cổ của Hỏa giáo.[19] Khu vực này, sau đó được gọi là "Ariana", rơi vào tay người Ba Tư Achaemenid vào thế kỷ thứ 6 TCN. Người Ba Tư sau đó đã chinh phục các khu vực ở phía đông đến tận thung lũng sông Hằng. Alexander Đại đế xâm chiếm khu vực này trong thế kỷ thứ 4 TCN, và kết hôn với Roxana ở Bactria trước khi ông thực hiện chiến dịch thung lũng Kabul, nơi ông chiến đấu với các bộ lạc Aspasioi và Assakan. Vương quốc Hy Lạp-Bactria trở thành phần cuối phía đông của thế giới Hy Lạp. Sau cuộc chinh phục của người da đỏ Maurya, Phật giáo và Ấn Độ giáo đã phát triển mạnh mẽ trong khu vực này trong nhiều thế kỷ. Hoàng đế Kushan Kanishka, người trị vì hai thủ đô Kapisi và Puruṣapura, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo Đại thừa đến Trung Quốc và Trung Á. Nhiều triều đại Phật giáo khác cũng bắt nguồn từ khu vực này, bao gồm Kidarites, Hephthalites, Alkhons, Nezaks, Zunbils và Turk Shahis.
Người Hồi giáo đã đưa Hồi giáo đến Herat và Zaranj thuộc đế quốc Sasan vào giữa thế kỷ thứ 7, trong khi việc Hồi giáo hóa đầy đủ hơn đã đạt được từ thế kỷ 9 đến 12 dưới các triều đại Saffarid, Samanid, Ghaznavid và Ghurid. Các phần của khu vực này sau đó được các đế chế Khwarazmian, Khalji, Timurid, Lodi, Sur, Mughal và Safavid cai trị.[20] Lịch sử chính trị của nhà nước Afghanistan hiện đại bắt đầu với triều đại Hotak, với người sáng lập Mirwais Hotak tuyên bố miền nam Afghanistan độc lập vào năm 1709. Năm 1747, Ahmad Shah Durrani thành lập Đế chế Durrani với thủ đô tại Kandahar. Năm 1776, thủ đô Durrani được chuyển đến Kabul trong khi Peshawar trở thành thủ đô mùa đông;[21] sau này bị mất vào tay người Sikh vào năm 1823. Vào cuối thế kỷ 19, Afghanistan trở thành một quốc gia đệm trong "Ván Cờ Lớn" giữa hai đế quốc Anh và Nga.[22][23]
Trong chiến tranh Anh-Afghanistan lần thứ nhất, 1839-1842, lực lượng Anh đến từ Ấn Độ lúc đầu giành quyền kiểm soát Afghanistan, nhưng sau đó đã bị đánh bại một cách dứt khoát. Sau Chiến tranh Anh-Afghanistan lần thứ ba vào năm 1919, đất nước này đã có thể độc lập thoát khỏi ảnh hưởng của nước ngoài. Afghanistan trở thành một chế độ quân chủ dưới thời Amanullah Khan. Tuy nhiên vào năm 1973 Zahir Shah bị lật đổ và một nước cộng hòa được thành lập. Năm 1978, sau cuộc đảo chính lần thứ hai, Afghanistan lần đầu tiên trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa, gây ra Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan trong những năm 1980 chống lại phiến quân mujahideen. Đến năm 1996, phần lớn đất nước bị nhóm Taliban với chủ nghĩa chính thống Hồi giáo cai trị như chế độ toàn trị. Taliban đã bị mất quyền lực sau cuộc xâm lược của Hoa Kỳ vào năm 2001 nhưng vẫn kiểm soát một phần đáng kể đất nước này. Cuộc chiến diễn ra giữa chính phủ mới do Mỹ thành lập và Taliban đã làm dày thêm hồ sơ nhân quyền và quyền phụ nữ ở Afghanistan, với nhiều hành vi vi phạm mà cả hai bên đều vi phạm, chẳng hạn như giết hại dân thường, bắt cóc và tra tấn. Do sự phụ thuộc sâu rộng của chính phủ Afghanistan đối với Mỹ về mặt quân sự và viện trợ kinh tế, một số người coi Afghanistan như quốc gia chư hầu của Mỹ.[24] Năm 2021, Hoa Kỳ rút quân khỏi Afghanistan, và chỉ ít tháng sau thì Taliban giành lại quyền kiểm soát đất nước sau khi đánh đổ chính phủ do Hoa Kỳ hậu thuẫn.
Afghanistan là một nước còn nghèo đói, suy dinh dưỡng trẻ em và tham nhũng ở mức cao. Ngoài ra, Afghanistan còn là thành viên của Liên hợp quốc, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á, Nhóm 77, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phong trào Không liên kết. Nền kinh tế của Afghanistan là nền kinh tế lớn thứ 96 trên thế giới, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là 72,9 tỷ USD theo sức mua tương đương; quốc gia này kém hơn nhiều về GDP bình quân đầu người (PPP), xếp thứ 169 trong số 186 quốc gia tính đến năm 2018.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LoC-pdf
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp); , ISBN 978-1-107-11162-2 |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
As with their Cold War counterparts, it was erroneous for American policymakers to believe that the governments of contemporary client states, such as Iraq, Afghanistan, and Pakistan, necessarily shared their desire to defeat radical Islamic insurgents by adhering to the prescriptions of U.S. counterinsurgency doctrine.
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/>
tương ứng