B-29 Superfortress | |
---|---|
![]() B-29 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ | |
Kiểu | Máy bay ném bom hạng nặng chiến lược |
Hãng sản xuất | Boeing |
Chuyến bay đầu tiên | 21 tháng 9 năm 1942 |
Được giới thiệu | 1943 |
Tình trạng | Nghỉ hưu (còn 2 chiếc hoạt động) |
Khách hàng chính | Không lực Lục quân Hoa Kỳ Không quân Hoàng gia Anh Không quân Hoàng gia Australia |
Được chế tạo | 1943-1945 |
Số lượng sản xuất | 3.900 |
Chi phí máy bay | 639.188 USD[1] |
Boeing B-29 Superfortress là máy bay ném bom hạng nặng, 4 động cơ cánh quạt của Không lực Lục quân Hoa Kỳ (tiền thân của Không quân Hoa Kỳ), được sử dụng chủ yếu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau chiến tranh, quân đội một số nước thân cận Hoa Kỳ cũng được trang bị máy bay này. Tên gọi "Superfortress" (Siêu pháo đài) được cải biến từ tên của tiền nhiệm nổi tiếng, B-17 Flying Fortress (Pháo đài bay).
B-29 (Boeing 345)[2] (những kiểu trước đó không được chấp nhận)[3] là một trong những máy bay lớn nhất tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là máy bay ném bom hiện đại nhất thời đó với buồng lái có điều áp, hệ thống điều khiển vũ khí tập trung và các ụ súng máy điều khiển từ xa. Máy bay được thiết kế để ném bom ban ngày ở độ cao lớn nhưng thực tế được huy động nhiều hơn cho các nhiệm vụ ném bom cháy ban đêm ở tầm thấp. B-29 là máy bay chủ lực thực thi chiến dịch ném bom tàn phá Nhật Bản trong những tháng cuối Chiến tranh thế giới thứ hai và đây cũng là loại máy bay dùng để ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Chi phí thiết kế và sản xuất của dự án B-29 lên tới 3 tỷ đô la (tương đương với 49 tỷ đô la ngày nay), [4] vượt xa chi phí 1.9 tỷ đô la của Dự án Manhattan, làm cho chương trình B-29 trở thành chương trình đắt đỏ nhất trong suốt thời kỳ chiến tranh.[5][6] Không như nhiều máy bay ném bom khác, B-29 tiếp tục phục vụ khá lâu sau khi chiến tranh chấm dứt, một số được sử dụng làm trạm phát truyền hình di động cho hệ thống Stratovision. Cho đến khi ngừng sử dụng vào những năm 1960, có khoảng 3.900 máy bay B-29 được xuất xưởng.
Khung máy bay tiếp tục được phát triển sau này thành chiếc B-50 Superfortress của Không quân Mỹ, và Liên Xô cũng phát triển một bản sao là chiếc Tupolev Tu-4, sao chép kỹ thuật từ những chiếc B-29 tịch thu được.[7] B-29 là tiền thân của một loạt máy bay ném bom, vận tải, cung cấp nhiên liệu, do thám, và máy bay huấn luyện do Boeing sản xuất. Ví dụ, phiên bản nâng cấp động cơ của B-50 Superfortress, tên là Lucky Lady II, đã trở thành chiếc máy bay đầu tiên bay vòng quanh thế giới mà không cần dừng lại, trong một chuyến bay kéo dài 94 giờ vào năm 1949. Máy bay vận tải Boeing C-97 Stratofreighter, được đưa vào hoạt động lần đầu vào năm 1944, sau đó vào năm 1947 đã có phiên bản dân dụng là Model 377 Stratocruiser. Sự phát triển từ máy bay ném bom sang máy bay dân dụng này tương tự như quá trình phát triển từ B-17 sang Model 307. Vào năm 1948, Boeing giới thiệu máy bay tiếp nhiên liệu KB-29, và sau đó vào năm 1950 là phiên bản KC-97 phát triển từ Model 377. Một dòng máy bay chở hàng siêu trọng của Stratocruiser là Guppy/Mini Guppy/Super Guppy, vẫn còn hoạt động với NASA và các đơn vị khác. Liên Xô đã sản xuất 847 chiếc Tupolev Tu-4, một phiên bản không được cấp phép và tái chế từ B-29. Hiện còn 20 chiếc B-29 đang được trưng bày cố định, nhưng chỉ có hai chiếc, FIFI và Doc, vẫn còn hoạt động.[8]