Charles Martel Carolus Martellus | |
---|---|
Công tước và hoàng thân của người Frank Quản thừa | |
![]() Tượng đặt tại Cung điện Versailles ở Paris | |
Công tước và hoàng thân của người Frank | |
Tại vị | 718 – 741 |
Đăng quang | 718 |
Tiền nhiệm | Pepin của Herstal |
Kế nhiệm | Pepin Lùn |
Quản thừa của Austrasia | |
Tại vị | 715 – 741 |
Đăng quang | 715 |
Tiền nhiệm | Theudoald |
Kế nhiệm | Carloman |
Vua của người Frank (trên thực tế) | |
Tại vị | 737 – 741 |
Đăng quang | 737 |
Tiền nhiệm | Theuderic IV |
Kế nhiệm | Childeric III |
Thông tin chung | |
Sinh | 688 Herstal |
Mất | 741 Quierzy |
An táng | Vương cung thánh đường Thánh Denis |
Phối ngẫu | Rotrude của Trier Swanhild |
Hậu duệ | Carloman Pepin Grifo Bernard Remigius Hiltrud và những người con khác |
Hoàng tộc | Vương triều Caroling |
Thân phụ | Pepin của Herstal |
Thân mẫu | Alpaida |
Carolus Martellus[1](tiếng Pháp: Charles Martel, tiếng Đức: Karl Martell; 688 – 741) là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Frank, với tước hiệu dux et princeps Francorum (công tước và hoàng thân Frank) và Quản thừa[2] ông đã cai trị trên thực tế (de facto) vương quốc Frank từ năm 718 đến khi qua đời.[3][4][5][6][7]
Ngày nay người ta chủ yếu biết đến ông như là người đã chiến thắng trong Trận Tours năm 732, trận chiến được coi là có tính chất quyết định chặn đứng việc bành trướng của các đạo quân Ả Rập vào Tây Âu thời kỳ hậu La Mã.[8] Chiến thắng này cùng với các hành động bảo trợ giáo hội Thiên Chúa giáo của ông khiến cho năm 739, Giáo hoàng Grêgôriô III quyết định phong ông danh hiệu Chấp chính quan La Mã nhưng ông đã từ chối. Các thắng lợi quân sự và chính trị của ông đã đặt nền móng để con trai ông Pippinus Brevis và cháu nội là Carolus Magnus gây dựng nên Đế chế Caroling, góp một phần quan trọng kiến tạo thể chế phong kiến ở châu Âu sơ kỳ trung đại.[9][10]