Game Boy

Game Boy
Máy Game Boy nguyên bản
Còn được gọiLỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Module:CountryData/summary' not found.
Nhà phát triểnNintendo R&D1
Nhà chế tạoNintendo
Dòng sản phẩmDòng Game Boy
LoạiMáy chơi trò chơi điện tử cầm tay
Thế hệThế hệ thứ tư
Ngày ra mắtLỗi Lua trong package.lua tại dòng 80: module 'Module:CountryData/summary' not found.
Vòng đời1989–2003
Giá giới thiệuJP¥12,500[1]
US$89.99[1][2]
£67.40[cần dẫn nguồn]
DM169[3]
Ngừng sản xuất23 March 2003; 21 năm trước (23 March 2003)[4]
Số lượng bánToàn thế giới: 118.69 triệu[4] (gồm Game Boy (Play it Loud!), Game Boy Pocket, Game Boy Light và Game Boy Color)
Truyền thôngGame Boy Game Pak
CPULõi Sharp LR35902 @ 4.19 MHz
Màn hìnhSTN LCD 160 × 144 pixels, 47 × 43 mm (w × h)[5]
Năng lượng4 × pin AA (nguyên mẫu)
Kích thước5.8"/148 mm × 3.5"/90 mm × 1.3"/32 mm (l × w × d)
Trọng lượng7.76 oz/0.22 kg (không gồm pin)
Trò chơi bán chạy nhấtPokémon Red và Blue, khoảng 31 triệu máy[6][7]
Sản phẩm trướcGame & Watch
Sản phẩm sauGame Boy Color[8]

Game Boy[a] (GB) là một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay 8-bit do Nintendo phát triển và phát hành. Đây là hệ máy đầu tiên trong Dòng Game Boy, máy phát hành lần đầu tiên tại Nhật Bản ngày 21 tháng 4 năm 1989, sau đó 3 tháng sau ra mắt ở Bắc Mỹ và cuối cùng là ra mắt ở châu Âu gần 1 năm sau. Gameboy được thiết kế bởi cùng một nhóm đã phát triển Game & Watch và nhiều trò chơi của hệ máy Nintendo Entertainment System: Okada Satoru,Yokoi GunpeiNintendo Research & Development 1.[9][10]

Game Boy là máy chơi trò chơi cầm tay thứ hai của Nintendo, máy kết hợp các tính năng từ NES và phần cứng của Game & Watch. Máy có màn hình ma trận điểm màu xanh tối với độ tương phản có thể điều chỉnh, bốn nút điều khiển (phím điều hướng, hai nút trò chơi và nút START/SELECT), một loa đơn với nút xoay điều chỉnh âm lượng, và như các đối thủ, máy sử dụng hộp băng ROM là phương tiện vật lý. Máy phối màu từ hai tông xám với các điểm nhấn đen, xanh dương và nâu. Tất cả các góc máy có hình chữ nhật dọc, bo tròn mềm mại, phía dưới bên phải uốn cong nhẹ. Khi ra mắt, máy bán dưới dạng độc lập hoặc đi kèm với một trong số các trò chơi: Super Mario Land hoặc Tetris. Một số phụ kiện cũng phát triển theo đó, bao gồm túi đựng, Game Geniemáy in.

Mặc dù về mặt kỹ thuật, máy kém hơn các đối thủ cạnh tranh cùng thế hệ thứ tư (Game Gear của Sega, Lynx của Atari, và TurboExpress của NEC), Game Boy nhận nhiều lời khen nhờ tuổi thọ pin và độ bền. Máy nhanh chóng bán chạy hơn đối thủ,[11] với một triệu máy bán ra tại Mỹ chỉ trong vòng vài tuần.[12] Game Boy và kế nhiệm, Game Boy Color, bán ra khoảng 118 triệu máy trên toàn thế giới.[4] Đây là một trong những thiết bị dễ nhận biết nhất trong thập niên 1980, trở thành một biểu tượng văn hóa. Một số thiết kế lại cũng phát hành trong suốt thời gian tồn tại của máy, bao gồm Game Boy Pocket (1996) và Game Boy Light (1998; chỉ ở Nhật Bản). Việc sản xuất Game Boy vẫn tiếp tục vào đầu những năm 2000, và cuối cùng dừng lại sau khi phát hành kế nhiệm, Game Boy Advance, ra mắt vào năm 2001. Việc sản xuất ngừng hẳn vào năm 2003.[13]

  1. ^ a b “Happy 20th b-day, Game Boy: here are 6 reasons why you're #1”. Ars Technica. ngày 7 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2017.
  2. ^ “The Real Cost of Gaming: Inflation, Time, and Purchasing Power”. 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ “Matsch-Screen statt Touchscreen”. 12 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  4. ^ a b c “Consolidated Sales Transition by Region” (PDF). Nintendo. ngày 26 tháng 4 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ “Technical data”. Nintendo of Europe GmbH.
  6. ^ “50 Most Popular Video Games of All Time”. 247wallst.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.
  7. ^ “All-time best selling console games worldwide 2018 | Statistic”. Statista (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.
  8. ^ Umezu; Sugino. “Nintendo 3DS (Volume 3 – Nintendo 3DS Hardware Concept)”. Iwata Asks (Interview: Transcript). Phỏng vấn viên Satoru Iwata. Nintendo. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
  9. ^ Beuscher, Dave. “Game Boy - Overview”. Allgame. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2008. Một nhóm do Gumpei Yokoi [sic] đứng đầu đã thiết kế Game Boy. Yokoi trước đây đã thiết kế các trò chơi cầm tay cho Nintendo với máy Game & Watch dựa trên hộp băng, giới thiệu vào năm 1980. Đội ngũ nhân viên của ông, gọi là nhóm Nghiên cứu và Phát triển (R và D)#1, đã thiết kế các trò chơi NES thành công là Metroid và Kid Icarus. Những gì nhóm của Yokoi đã làm là tạo ra sự kết hợp giữa NES và Game & Watch.
  10. ^ “Satoru Okada talks Game & Watch, Game Boy and Nintendo DS development”. Issue 163. Retro Gamer Magazine. 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2017.
  11. ^ “AtariAge - Lynx History”. AtariAge. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016. Cuối cùng, Lynx bị loại khỏi cuộc chơi và thị trường thiết bị cầm tay bị thống trị bởi Nintendo GameBoy với Sega Game Gear ở vị trí thứ hai.
  12. ^ Kent 2001, p. 416. "Theo một bài báo trên tạp chí Time, một triệu MÁY Game Boy được gửi đến Hoa Kỳ vào năm 1989 chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu về sản phẩm. Phần phân bổ đó đã bán hết trong vài tuần và màu đen và trắng của nó (ngoại trừ các trò chơi Konami/Factor 5 và SeaQuest DSV), được hiển thị bằng màu giống như phiên bản Game Gear."
  13. ^ Stuart, Keith. “Nintendo Game Boy – 25 facts for its 25th anniversary”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng


From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Nelliwinne