Neil Armstrong | |
---|---|
![]() Armstrong, tháng 4 năm 1969 | |
Sinh | Neil Alden Armstrong 5 tháng 8, 1930 Wapakoneta, Ohio, Hoa Kỳ |
Mất | 25 tháng 8, 2012 Cincinnati, Ohio, Hoa Kỳ | (82 tuổi)
Trường lớp |
|
Phối ngẫu |
|
Con cái | 3 |
Giải thưởng | |
Quốc tịch | ![]() |
Sự nghiệp chinh phục không gian | |
Phi hành gia USAF / NASA | |
Nghề nghiệp trước | Phi công hải quân, phi công thử nghiệm |
Cấp bậc | ![]() |
Thời gian trong không gian | 8 ngày, 14 tiếng, 12 phút và 30 giây |
Tuyển chọn | |
Số lần EVA tổng cộng | 1 |
Thời gian EVA tổng cộng | 2 giờ 31 phút |
Sứ mệnh | Gemini 8, Apollo 11 |
Phù hiệu sứ mệnh | ![]() ![]() |
![]() |
Neil Alden Armstrong (5 tháng 8 năm 1930 – 25 tháng 8 năm 2012) là một phi hành gia và kỹ sư kỹ thuật hàng không vũ trụ người Mỹ, và cũng là người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng. Ông cũng là một phi công hải quân, phi công thử nghiệm, và giáo sư đại học.
Là một cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Purdue, Armstrong đã theo học ngành kỹ thuật hàng không; học phí đại học của ông được Hải quân Hoa Kỳ chi trả theo Kế hoạch Holloway. Ông đã trở thành một chuẩn úy hải quân vào năm 1949 và phi công hải quân vào năm tiếp theo. Ông tham gia vào những hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên, lái chiếc Grumman F9F Panther từ tàu sân bay USS Essex. Vào tháng 9 năm 1951, trong khi thực hiện một cuộc ném bom tầm thấp, máy bay của Armstrong đã bị hư hại khi va chạm với một dây cáp phòng không cắt đứt một phần lớn của một bên cánh. Armstrong bị buộc phải nhảy dù khỏi máy bay. Sau chiến tranh, ông đã hoàn thành bằng cử nhân tại Purdue và trở thành phi công thử nghiệm tại Trạm bay Tốc độ cao của Ủy ban Cố vấn Hàng không Quốc gia (NACA) tại Căn cứ Không quân Edwards ở California. Ông là phi công dự án trên các máy bay chiến đấu Century Series và bay bảy lần trên chiếc North American X-15. Ông cũng là người tham gia các chương trình Man in Space Soonest và chuyến bay vũ trụ có người trên chiếc X-20 Dyna-Soar, tất cả đều thuộc Không quân Hoa Kỳ.
Armstrong gia nhập Quân đoàn Phi hành gia NASA trong nhóm thứ hai, được chọn vào năm 1962. Ông thực hiện chuyến du hành không gian đầu tiên với tư cách là phi công chỉ huy của Gemini 8 vào tháng 3 năm 1966, trở thành phi hành gia dân sự đầu tiên của NASA bay lên vũ trụ. Trong nhiệm vụ này với phi công David Scott, ông đã thực hiện lần đầu tiên hoạt động ghép nối hai tàu vũ trụ; nhiệm vụ đã bị hủy bỏ sau khi Armstrong sử dụng nhiên liệu kiểm soát tái nhập của mình để làm ổn định một chuyển động lộn vòng nguy hiểm gây ra bởi một bộ đẩy bị kẹt. Trong quá trình huấn luyện cho chuyến du hành không gian thứ hai và cuối cùng của Armstrong với tư cách là chỉ huy tàu Apollo 11, ông đã phải bật ghế phóng ra khỏi Phương tiện Di chuyển Nghiên cứu Hạ cánh xuống Mặt Trăng trước khi gặp nạn.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, Armstrong và phi công Buzz Aldrin của Mô-đun Mặt Trăng (LM) của tàu Apollo 11 đã trở thành những người đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng, và ngày hôm sau họ dành hai tiếng rưỡi bên ngoài tàu vũ trụ trong khi Michael Collins vẫn ở trên quỹ đạo mặt trăng ở mô-đun chỉ huy (CM) của nhiệm vụ. Khi Armstrong bước lên bề mặt Mặt Trăng, ông đã phát biểu một câu nói nổi tiếng: "Đây là bước đi nhỏ bé của một con người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại."[1] Cùng với Collins và Aldrin, Armstrong đã được Tổng thống Richard Nixon trao tặng Huân chương Tự do Tổng thống. Tổng thống Jimmy Carter đã trao tặng cho Armstrong Huân chương Danh dự Không gian Quốc hội năm 1978, và Armstrong và các đồng đội cũ của ông đã nhận được Huy chương Vàng Quốc hội năm 2009.
Sau khi từ chức tại NASA vào năm 1971, Armstrong giảng dạy tại Khoa Kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Đại học Cincinnati cho đến năm 1979. Ông phục vụ trong cuộc điều tra tai nạn Apollo 13 và Ủy ban Rogers, điều tra thảm họa tàu con thoi Challenger. Ông đóng vai trò là người phát ngôn cho một số doanh nghiệp và xuất hiện trong quảng cáo cho thương hiệu ô tô Chrysler bắt đầu từ tháng 1 năm 1979.