Nicole Kidman

Nicole Kidman

Kidman vào năm 2024
SinhNicole Mary Kidman
20 tháng 6, 1967 (57 tuổi)[1]
Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ
Tư cách công dânÚc, Mỹ
Trường lớpAustralian Theatre for Young People
Nghề nghiệpDiễn viên, nhà sản xuất, ca sĩ
Năm hoạt động1983–hiện tại
Tài sản183 triệu đô la Mỹ (2015)[2][3]
Phối ngẫu
Con cái4
Cha mẹAntony Kidman
Janelle Glenny
Người thânAntonia Kidman (chị em)
Websitenicolekidmanofficial.com

Nicole Mary Kidman[4] AC (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1967)[5] là một nữ diễn viên,[6] ca sĩ, và nhà sản xuất người Úc.[7]đã nhận một Giải Oscar, hai Giải Primetime Emmy, và năm Giải Quả cầu Vàng. Cô là một trong những nữ diễn viên có thu nhập cao nhất các năm 2006, 2018 và 2019. Tạp chí Time gọi cô là một trong 100 người ảnh hưởng nhất thế giới các năm 2004 và 2018.[8][9][10] Năm 2020, The New York Times xếp cô thứ năm trong danh sách những diễn viên xuất sắc nhất thế kỷ 21 đến thời điểm đó của tờ báo này.[11]

Kidman bắt đầu sự nghiệp diễn xuất ở Úc với các bộ phim Bush ChristmasBMX Bandits năm 1983. Bước đột phá của cô bắt đầu từ năm 1989 với bộ phim gây cấn Dead Calm và loạt phim ngắn tập Bangkok Hilton. Năm 1990, cô ra mắt Hollywood với bộ phim đua xe Days of Thunder, cùng với Tom Cruise. Cô bắt đầu nhận được sự chú ý với các vai diễn chính trong Far and Away (1992), Batman Forever (1995), To Die For (1995) và Eyes Wide Shut (1999). Kidman giành Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với vai nhà văn Virginia Woolf trong bộ phim chính kịch The Hours (2002). Những vai diễn đã được đề cử giải Oscar khác của cô bao gồm bộ phim nhạc kịch Moulin Rouge! (2001) và các phim chính kịch Rabbit Hole (2010) và Lion (2016).

Những bộ phim khác có sự tham gia của Kidman bao gồm The Others (2001), Cold Mountain (2003), Dogville (2003), Birth (2004), Australia (2008), The Paperboy (2012), Paddington (2014), The Killing of a Sacred Deer (2017), Destroyer (2018), Aquaman (2018) và Bombshell (2019).

Những vai diễn của Kidman trong lĩnh vực truyền hình bao gồm Hemingway & Gellhorn (2012), Big Little Lies (2017–2019), Top of the Lake: China Girl (2017), và The Undoing (2020). Với Big Little Lies, cô giành hai Giải Primetime Emmy cho Nữ diễn viên xuất sắc nhấtLoạt phim ngắn xuất sắc nhất (với cương vị nhà sản xuất chính).

Kidman là đại sứ thân thiện cho UNICEF từ năm 1994[12] và cho UNIFEM từ năm 2006.[13] Năm 2006, cô được trao tặng huân chương Companion of the Order of Australia.[14] Vì bố mẹ người Úc sinh cô ở Hawaii, Kidman mang hai quốc tịch là Úc và Hoa Kỳ.[15][16] Năm 2010, cô thành lập công ty sản xuất Blossom Films. Cô là vợ của diễn viên Tom Cruise từ năm 1990 đến 2001, và cưới ca sĩ nhạc đồng quê Keith Urban năm 2006.

  1. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1264). ngày 21 tháng 6 năm 2013. tr. 26.
  2. ^ Fitzsimmons, Caitlin (ngày 8 tháng 3 năm 2015). “The 30 richest self-made women in Australia”. BRW. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
  3. ^ “Bridges among Australia's richest women”. Sky News Australia. ngày 8 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
  4. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên biography.com
  5. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1264). ngày 21 tháng 6 năm 2013. tr. 26.
  6. ^ “Nicole Kidman, Australian actress”. Encyclopaedia Britannica. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  7. ^ “Nicole Kidman sweats new producer role”. The Independent. London. ngày 18 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  8. ^ Watts, Naomi. “Nicole Kidman”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  9. ^ “Best-Paid Actors and Actresses”. Forbes. ngày 23 tháng 2 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  10. ^ “The 2004 TIME 100”. Times. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2019.
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên NYT201125
  12. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BBC-ngày 26 tháng 1 năm 2006
  13. ^ "UNIFEM Goodwill Ambassador Nicole Kidman" Lưu trữ 2012-10-05 tại Wayback Machine. Unifem.org. January 2006.
  14. ^ Stafford, Annabel (ngày 14 tháng 4 năm 2007). “Kidman and the Kennedys honoured for their service”. The Age. Melbourne. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2007.
  15. ^ “Nicole Kidman: 'Back to my core', 'Birthday Girl' is 'about the "unlikeness" of two people'. CNN. ngày 18 tháng 1 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2016.
  16. ^ “Nicole Kidman: 5 Things You Didn't Know About the Actress”. Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2019.

From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Nelliwinne