Cộng hoà Palau
|
|||
---|---|---|---|
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
| |||
| |||
Quốc ca | |||
Belau rekid Palau của chúng ta | |||
Hành chính | |||
Cộng hoà lập hiến tổng thống | |||
Tổng thống | Surangel Whipps Jr. | ||
Lập pháp | Olbiil era Kelulau | ||
Thủ đô | Ngerulmud 7°30′B 134°37′Đ / 7,5°B 134,617°Đ | ||
Thành phố lớn nhất | Koror | ||
Địa lý | |||
Diện tích | 459 km² (hạng 180) | ||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||
Múi giờ | UTC+9 | ||
Lịch sử | |||
18 tháng 7 năm 1947 | Ủy trị | ||
2 tháng 4 năm 1979 | Hiến pháp | ||
1 tháng 10 năm 1994 | Hiệp ước liên kết tự do | ||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh, Tiếng Palau (toàn quốc) Tiếng Sonsorol (ở Sonsorol) Tiếng Tobi (ở Hatohobei, Koror, Sonsorol) Tiếng Nhật (ở Angaur) | ||
Sắc tộc |
| ||
Dân số ước lượng (2018) | 18.024 người (hạng 222) | ||
Dân số (2022) | 18.233 người | ||
Kinh tế | |||
GDP (PPP) (2017) | Tổng số: 297 triệu USD[1] Bình quân đầu người: 16.278 USD[1] | ||
GDP (danh nghĩa) (2017) | Tổng số: 315 triệu USD[1] Bình quân đầu người: 17.286 USD[1] | ||
HDI (2014) | 0,780[2] cao (hạng 60) | ||
Đơn vị tiền tệ | Dollar Mỹ (USD ) | ||
Thông tin khác | |||
Mã ISO 3166-1 | PW | ||
Tên miền Internet | .pw | ||
Mã điện thoại | 680 | ||
Lái xe bên | phải |
Palau (phát âm tiếng Anh: /pəˈlaʊ/ ⓘ, phiên âm: "Pa-lao", còn được viết là Belau, Palaos hoặc Pelew), tên chính thức là Cộng hòa Palau (tiếng Palau: Beluu er a Belau, tiếng Anh: Republic of Palau),[3] là một đảo quốc ở Tây Thái Bình Dương. Nước này bao gồm gần 250 hòn đảo tạo thành dãy đảo phía tây của quần đảo Caroline thuộc vùng Micronesia, và có diện tích 466 kilômét vuông (180 dặm vuông Anh). Đảo đông dân nhất là Koror. Thủ đô Ngerulmud của nước này nằm trên đảo Babeldaob gần đó, thuộc bang Melekeok. Palau có biên giới biển giáp với Indonesia, Philippines, và Liên bang Micronesia.
Những cư dân đầu tiên đến đây vào khoảng 3.000 năm trước từ Philippines và duy trì một cộng đồng Negrito cho đến 900 năm trước. Quần đảo được người châu Âu khám phá lần đầu tiên vào thế kỷ 16, và thuộc về Đông Ấn Tây Ban Nha vào năm 1574. Sau khi người Tây Ban Nha thất bại trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ vào năm 1898, quần đảo được bán cho Đế quốc Đức vào năm 1899 theo những điều khoản trong Hiệp ước Đức-Tây Ban Nha, và được sáp nhập vào New Guinea thuộc Đức. Hải quân Hoàng gia Nhật đánh chiếm Palau trong Thế chiến I, và quần đảo sau đó thuộc về Ủy thác Nam Dương dưới sự cai quản của người Nhật sau theo Hội Quốc Liên. Trong Thế chiến thứ hai, nơi đây là chiến trường diễn ra các cuộc đụng độ giữa người Mỹ và Nhật trong chiến dịch quần đảo Mariana và Palau bao gồm Trận Peleliu quyết định. Sau chiến tranh, cùng với các đảo ảo Thái Bình Dương khác, Palau là một phần của Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái Bình Dương do Hoa Kỳ quản lý vào năm 1947. Sau khi bỏ phiếu không tham gia Liên bang Micronesia vào năm 1979, quần đảo có chủ quyền hoàn toàn vào năm 1994 theo Hiệp ước Liên kết Tự do với Hoa Kỳ.
Về mặt chính trị, Palau là một quốc gia cộng hòa tổng thống liên kết tự do với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đảm bảo quốc phòng, tài trợ và dịch vụ công. Quyền lập pháp tập trung vào Quốc hội Palau theo hệ thống lưỡng viện. Kinh tế Palau chủ yếu dựa vào du lịch, nông nghiệp tự cung và đánh cá, với một phần lớn tổng sản lượng quốc gia (GNP) đến từ viện trợ nước ngoài. Dollar Mỹ là tiền tệ của nước này. Văn hóa trên đảo được trộn lẫn từ người Micronesia, Melanesia, châu Á và châu Âu. Người Palau chiếm tỉ lệ lớn trong dân số, là kết quả của sự hòa trộn 3 sắc tộc Micronesia, Melanesia, và Austronesia. Thiểu số còn lại là hậu duệ của những người định cư Nhật Bản và Philippines. Hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Palau (nằm trong nhóm ngôn ngữ Sunda–Sulawesi) và tiếng Anh, cùng với tiếng Nhật, tiếng Sonsorol, và tiếng Tobia được công nhận là ngôn ngữ địa phương.