Rafiq Hariri

Rafiq Hariri
Ảnh Rafiq Hariri tới Lầu Năm Góc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về vấn đề chung của hai nước, ngày 25 tháng 4 năm 2001.
Chức vụ
Nhiệm kỳ23 tháng 10 năm 2000 – 21 tháng 10 năm 2004
Tổng thống LibanÉmile Lahoud
Tiền nhiệmSelim Hoss
Kế nhiệmOmar Karami
Vị trí Liban
Nhiệm kỳ31 tháng 1 năm 1992 – 2 tháng 12 năm 1998
Tổng thống LibanElias Hrawi
Émile Lahoud
Tiền nhiệmRashid el-Solh
Kế nhiệmSelim Hoss
Vị trí Liban
Thông tin cá nhân
Quốc tịch Liban
 Ả Rập Xê Út
Sinh(1944-11-01)1 tháng 11 năm 1944
Sidon, Liban
Mất14 tháng 2 năm 2005(2005-02-14) (60 tuổi)
Beirut, Liban
Nghề nghiệpChính khách Liban
Doanh nhân tài phiệt
Dân tộcNgười Liban
Tôn giáoHồi giáo Sunni
Đảng chính trịPhong trào Tương lai
VợNidal Bustani, người Iraq (1965)
Nazik Audi
(kết hôn: 1976 – cuối đời)
Con cáiBahaa, Saad, Houssam, Ayman, Fahd, Hind
Học vấnCử nhân Quản trị kinh doanh
Alma materĐại học Ả Rập Beirut

Rafiq Baha El Deen Al Hariri hay Rafiq Baha' al-Din al-Hariri, hoặc Rafic, Rafik (tiếng Ả Rập: رفيق بهاء الدين الحريري; phát âm tiếng Ả Rập: [rafiːq al ħariːriː], sinh ngày 1 tháng 11 năm 1944, mất ngày 14 tháng 2 năm 2005) là một nhà trùm tài phiệt người Libanchủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thứ 22 của Liban[Ghi chú 1] các giai đoạn 1992 – 1998, 2000 – 2004 cho đến khi từ chức ngày 20 tháng 10 năm 2004 (2004-10-20).[1]

Rifiq Hariri đứng đầu năm nội các tại các nhiệm kỳ của mình.[Ghi chú 2] Trong sự nghiệp chính trị, ông được tín nhiệm rộng rãi với vai trò thúc đẩy việc xây dựng Hiệp định Ta'if chấm dứt 15 năm Nội chiến Liban (1975 – 1990) và tái thiết thủ đô Beirut.[2] Ông là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liban đầu tiên sau nội chiến,[3] chính trị gia Liban ảnh hưởng nhất và giàu có nhất cho đến khi bị ám sát.[4]

Hariri bị ám sát vào ngày 14 tháng 2 năm 2005 khi đoàn xe của ông bị đánh bom ở thủ đô Beirut. Liên Hợp Quốc đã tham gia điều tra, nghiên cứu vụ việc, thành lập Tòa đặc biệt Liban,[Ghi chú 3] hiện đang trong giai đoạn tổ chức phiên tòa vắng mặt truy tố bốn thành viên của Đảng Thượng đế Liban – Hezbollah về tội ám sát.[5]

Vụ ám sát Hariri là chất xúc tác cho sự thay đổi chính trị mạnh mẽ ở Liban. Các cuộc biểu tình rầm rộ của Cách mạng Cây Tuyết tùng[Ghi chú 4] năm 2005 góp phần đẩy quân đội Syria và lực lượng an ninh ra khỏi Liban, thay đổi Chính phủ mới.[6]

Rafiq Hariri từng là một trong 100 người đàn ông giàu nhất thế giới,[7] chính trị gia giàu thứ tư trên thế giới.[8] Con trai ông, Saad Hariri trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thứ 25 của Liban, nhiệm kỳ 2009 – 2011 và 2016 – 2020.[9]


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “Ghi chú”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="Ghi chú"/> tương ứng

  1. ^ “Tiểu sử Rafic al-Hariri”. Britannica. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  2. ^ JOSEPH, BAHOUT. “The Unraveling of Lebanon's Taif Agreement: Limits of Sect-Based Power Sharing”. Canregieen Dowment International Peace. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ Lewis, Lauren (ngày 14 tháng 2 năm 2020). “Remembering the death of Rafic Hariri (1944-2005)”. Middle East Monitor. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  4. ^ “About Rafik Hariri”. Atlantic Council. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  5. ^ Perry, Tom (ngày 4 tháng 8 năm 2020). “Factbox: The assassination of Lebanon's Hariri and its aftermath”. Reuter. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  6. ^ Sara Al Shurafa (ngày 14 tháng 2 năm 2020). “15 years on, Lebanese remember Valentine's Day massacre that killed Hariri”. Gulf News. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  7. ^ “Rafik Hariri: Billionaire politician”. News BBC. ngày 4 tháng 9 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  8. ^ “Forbes says Hariri ranks fourth among wealthy politicians”. Daily Star. ngày 13 tháng 3 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  9. ^ “Tiểu sử Saad Hariri”. Britannica. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.

From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Nelliwinne