Sharia

Sharia (/ʃəˈrə/; tiếng Ả Rập: شَرِيعَة, đã Latinh hoá: sharīʻa [ʃaˈriːʕa]), là luật tôn giáo hình thành ra một phần của truyền thống Hồi giáo.[1][2] Nó có nguồn gốc từ các giới luật tôn giáo của Hồi giáo, đặc biệt là Kinh Qur'anhadith. Trong tiếng Ả Rập, thuật ngữ sharīʿah dùng để chỉ luật thiêng liêng bất biến của Đức Chúa Trời và tương phản với fiqh, dùng để chỉ những cách giải thích mang tính học thuật của con người.[3][4][5] Cách thức áp dụng nó trong thời hiện đại đã là một chủ đề tranh chấp giữa những người theo chủ nghĩa chính thống Hồi giáonhững người theo chủ nghĩa hiện đại.[6][1]

Lý thuyết truyền thống của luật học Hồi giáo công nhận bốn nguồn của Sharia: Kinh Qur'an, sunnah (hadith đích thực), qiyas (suy luận loại suy), [note 1]ijma (đồng thuận về luật).[8] Các trường phái luật khác nhau — trong đó nổi bật nhất là Hanafi, Maliki, ShafiʽiHanbali — các phương pháp luận được phát triển để đưa ra các phán quyết của Sharia từ các nguồn kinh thánh sử dụng một quy trình được gọi là ijtihad.[3][4] Luật học truyền thống (fiqh) phân biệt hai nhánh luật chính,ʿibādāt (nghi lễ) và muʿāmalāt (quan hệ xã hội), cùng bao gồm một loạt các chủ đề.[9][5] Các phán quyết của nó liên quan đến các tiêu chuẩn đạo đức cũng như các quy phạm pháp luật,[10][11] gán các hành động vào một trong năm loại: bắt buộc, khuyến nghị, trung lập, ghê tởmcấm.[9][4][5] Do đó, một số khu vực của Sharia trùng lặp với quan niệm pháp luật của phương Tây trong khi những khu vực khác tương ứng rộng rãi hơn với cuộc sống sống phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời.[4]

Luật học cổ điển được xây dựng bởi các học giả tôn giáo tư nhân, phần lớn thông qua các ý kiến pháp lý (fatwa) do các luật gia có trình độ (mufti) ban hành. Trong lịch sử, nó được áp dụng tại các tòa án Sharia bởi các thẩm phán do người cai trị chỉ định, những người chủ yếu giải quyết các tranh chấp dân sự và các vấn đề cộng đồng.[12][5] Tòa án Sultanic, cảnh sátthanh tra thị trường quản lý tư pháp hình sự, chịu ảnh hưởng của Sharia nhưng không bị ràng buộc bởi các quy tắc của nó.[13][5] Các cộng đồng không theo đạo Hồi (dhimmi) có quyền tự chủ hợp pháp để phân xử các công việc nội bộ của họ.[4] Qua nhiều thế kỷ, đạo Hồi dòng Sunni dần dần được đưa vào các cơ quan hành chính nhà nước,[14] và fiqh được bổ sung bởi nhiều luật kinh tế, hình sự và hành chính do các nhà cai trị Hồi giáo ban hành.[15] Bộ luật dân sự của Ottoman năm 1869–1876 là nỗ lực từng phần đầu tiên để hệ thống hóa Sharia.[16]

Trong thời kỳ hiện đại, các đạo luật truyền thống trong thế giới Hồi giáo đã được thay thế rộng rãi bằng các đạo luật lấy cảm hứng từ các mô hình châu Âu.[4][17] thủ tục tư pháp và giáo dục pháp luật cũng phù hợp với thông lệ châu Âu.[4] Trong khi hiến pháp của hầu hết các quốc gia đa số theo đạo Hồi đều có đề cập đến Sharia, các quy tắc cổ điển của nó phần lớn chỉ được giữ lại trong các luật về địa vị cá nhân (gia đình).[4] lập pháp đã hệ thống hóa các luật này đã tìm cách hiện đại hóa chúng mà không từ bỏ nền tảng của luật học truyền thống.[4][16] Sự hồi sinh của Hồi giáo vào cuối thế kỷ 20 kéo theo lời kêu gọi của các phong trào Hồi giáo thực hiện đầy đủ Sharia, bao gồm cả các hình phạt thân thể hudud, chẳng hạn như ném đá.[4][16] Trong một số trường hợp, điều này dẫn đến cải cách pháp luật theo chủ nghĩa truyền thống, trong khi các quốc gia khác chứng kiến sự giải thích lại về mặt pháp lý của Sharia được các nhà cải cách tiến bộ ủng hộ.[4][16][18] Một số quốc gia Hồi giáo thiểu số công nhận việc sử dụng luật gia đình dựa trên Sharia cho các cộng đồng Hồi giáo của họ.[19][20] Sharia cũng tiếp tục ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của cuộc sống riêng tư và công cộng.

Vai trò của Sharia đã trở thành một chủ đề tranh cãi trên khắp thế giới.[4] Việc áp dụng luật dựa trên Sharia đã gây ra bạo lực giữa các cộng đồng ở Nigeria[21][22] và có thể đã góp phần dẫn đến sự tan rã của Sudan.[4] Một số khu vực pháp lý ở Bắc Mỹ đã thông qua lệnh cấm sử dụng Sharia, được coi là hạn chế đối với luật tôn giáo hoặc luật nước ngoài.[23] Có những cuộc tranh luận đang diễn ra về việc liệu Sharia có thực sự tương thích với dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng, quyền phụ nữ, quyền LGBTngân hàng.[24][25][26]

Chợ nô lệ thế kỷ 13, Yemen. Nô lệ và thê thiếp được coi là tài sản ở Sharia; Nó có thể được mua, bán, cho thuê, tặng, chia sẻ và thừa kế.
  1. ^ a b “British & World English: sharia”. Oxford: Oxford University Press. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  2. ^ Editors, History com. “Islam”. HISTORY (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2020.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  3. ^ a b John L. Esposito biên tập (2014). “Islamic Law”. The Oxford Dictionary of Islam. Oxford: Oxford University Press. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m Vikør 2014.
  5. ^ a b c d e Calder 2009.
  6. ^ Amanat 2009: "Muslim fundamentalists [...] claim that Shari’a and its sources [...] constitute a divine law that regulates all aspects of Muslim life, as well as Muslim societies and Muslim states [...]. Muslim modernists, [...] on the other hand, criticize the old approaches to Shari’a by traditional Muslim jurists as obsolete and instead advocate innovative approaches to Shari’a that accommodate more pluralist and relativist views within a democratic framework."
  7. ^ Schneider 2014.
  8. ^ John L. Esposito, Natana J. DeLong-Bas (2001), Women in Muslim family law Lưu trữ 19 tháng 10 năm 2017 tại Wayback Machine, p. 2. Syracuse University Press, ISBN 978-0815629085. Quote: "[...], by the ninth century, the classical theory of law fixed the sources of Islamic law at four: the Quran, the Sunnah of the Prophet, qiyas (analogical reasoning), and ijma (consensus)."
  9. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ODI2
  10. ^ Coulson & El Shamsy 2019.
  11. ^ Hallaq 2010, tr. 145.
  12. ^ John L. Esposito biên tập (2014). “Islamic Law”. The Oxford Dictionary of Islam. Oxford: Oxford University Press. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  13. ^ Ziadeh 2009c.
  14. ^ Dallal & Hendrickson 2009.
  15. ^ Stewart 2013, tr. 500.
  16. ^ a b c d Mayer 2009.
  17. ^ Otto 2008, tr. 19.
  18. ^ Rabb 2009d.
  19. ^ Otto 2008, tr. 18–20.
  20. ^ Stahnke, Tad and Robert C. Blitt (2005), "The Religion-State Relationship and the Right to Freedom of Religion or Belief: A Comparative Textual Analysis of the Constitutions of Predominantly Muslim Countries." Georgetown Journal of International Law, volume 36, issue 4; also see Sharia Law profile by Country Lưu trữ 16 tháng 1 năm 2014 tại Wayback Machine, Emory University (2011)
  21. ^ Staff (3 January 2003). "Analysis: Nigeria's Sharia Split" Lưu trữ 12 tháng 7 năm 2018 tại Wayback Machine. BBC News. Retrieved 19 September 2011. "Thousands of people have been killed in fighting between Christians and Muslims following the introduction of sharia punishments in northern Nigerian states over the past three years [...] human rights' groups have complained that these religious laws are archaic and unjust, and create an atmosphere of intimidation against Christians – even though they are not subject to the Sharia.".
  22. ^ Harnischfeger, Johannes (2008).  • p. 16. "When the Governor of Kaduna announced the introduction of Sharia, although non-Muslims form almost half of the population, violence erupted, leaving more than 1,000 people dead."  • p. 189. "When a violent confrontation loomed in February 200, because the strong Christian minority in Kaduna was unwilling to accept the proposed sharia law, the sultan and his delegation of 18 emirs went to see the governor and insisted on the passage of the bill."
  23. ^ Thomas, Jeffrey L. (2015). Scapegoating Islam: Intolerance, Security, and the American Muslim. ABC-CLIO. tr. 83–86. ISBN 978-1440831003. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  24. ^ An-Na'im, Abdullahi A (1996). “Islamic Foundations of Religious Human Rights”. Trong Witte, John; van der Vyver, Johan D. (biên tập). Religious Human Rights in Global Perspective: Religious Perspectives. tr. 337–59. ISBN 978-9041101792.
  25. ^ Hajjar, Lisa (2004). “Religion, State Power, and Domestic Violence in Muslim Societies: A Framework for Comparative Analysis”. Law & Social Inquiry. 29 (1): 1–38. doi:10.1111/j.1747-4469.2004.tb00329.x. JSTOR 4092696.
  26. ^ Al-Suwaidi, J. (1995). Arab and western conceptions of democracy; in Democracy, war, and peace in the Middle East (Editors: David Garnham, Mark A. Tessler), Indiana University Press, see Chapters 5 and 6; ISBN 978-0253209399[cần số trang]


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “note”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="note"/> tương ứng


From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Nelliwinne