Beauvoir sở hữu nhiều tác phẩm viết về đề tài triết học, chính trị, và vấn đề xã hội. Bà được biết đến nhiều nhất với "tác phẩm tiên phong trong triết học nữ quyền",[8]Giới tính hạng hai (1949), một bản phân tích chi tiết về sự áp bức đối với nữ giới và một bản chính luận nền tảng về chủ nghĩa nữ quyền đương đại.
Trong số các tác phẩm của mình, các cuốn hồi ký của bà là những đóng góp bền vững nhất cho nền văn học, đặc biệt là cuốn hồi ký đầu tiên, Mémoires d'une jeune fille rangée[9] (1958).[10] Các thành tựu nổi bật trong sự nghiệp văn học của bà gồm có Giải Goncourt năm 1954, Giải Jerusalem năm 1975, và Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Bà cũng được đề cử cho Giải Nobel Văn học vào năm 1961, 1969 và 1973.[11] Tuy nhiên, Beauvoir đã từng gây tranh cãi khi bà mất công việc giảng dạy do bị cáo buộc lạm dụng tình dục học sinh của mình.
^O'Brien, Wendy, and Lester Embree (eds), The Existential Phenomenology of Simone de Beauvoir, Springer, 2013, p. 40.
^Bergoffen, Debra; Burke, Megan (2021). Zalta, Edward N. (biên tập). “Simone de Beauvoir”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy . Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2022.
^Bergoffen, Debra (16 tháng 8 năm 2010). Zalta, Edward (biên tập). “Simone de Beauvoir”. Stanford Encyclopedia of Philosophy (ấn bản thứ 2010). Stanford University. ISSN1095-5054. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2021.
^“Simone de Beauvoir”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. 2023.