T-ara

T-ara
티아라
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khácTiara
Nguyên quánHàn Quốc Seoul, Hàn Quốc
Thể loại
Năm hoạt động2009–2017 (MBK)
2018–nay (tự do)
Hãng đĩaMBK Entertainment
EMI Music Japan
Banana Plan[1]
Bài hát tiêu biểu
Thành viên
Cựu thành viên
Tên tiếng Hàn
Hangul
티아라
Romaja quốc ngữTiara
McCune–ReischauerT'iara

T-ara hay Tiara (phát âm: /tiˈɑːrə/; tiếng Hàn Quốc: 티아라) là một nhóm nhạc nữ thần tượng của Hàn Quốc ra mắt vào ngày 29 tháng 7 năm 2009 bởi Core Contents Media, nay là MBK Entertainment.[note 1][5][6][7] Trước khi đứng trên sân khấu, nhóm đã được đào tạo chuyên nghiệp trong vòng ba năm.[8] Ban đầu, T-ara có năm thành viên là Jiae, Jiwon, Eunjung, HyominJiyeon. Họ cho ra mắt ca khúc đầu tiên "Good Person" (tiếng Hàn Quốc: 좋은 사람) trong bộ phim Cinderella Man vào tháng 4 năm 2009. Hai tháng sau, hai thành viên Jiwon và Jiae rời nhóm. Tháng 7 năm 2009, ba thành viên mới là Boram, QriSoyeon gia nhập vào đội hình.[9] Nhóm bắt đầu sự nghiệp chính thức với đội hình gồm sáu thành viên và phát hành đĩa đơn đầu tay "Lie" vào ngày 27 tháng 7 năm 2009 cùng trưởng nhóm Eunjung.[10]

Năm 2011, T-ara ký một hợp đồng 4.7 tỷ won với công ty giải trí J-Rock cho việc ra mắt tại Nhật,[11] đây là số tiền cao nhất trong tất cả các nhóm nhạc nữ Hàn Quốc ra mắt tại Nhật Bản.[12] Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên của nhóm là ca khúc làm lại từ bản hit "Bo Peep Bo Peep" năm 2009, ca khúc sau đó đã được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Nhật Bản trao chứng nhận Vàng khi bán ra được hơn 100.000 bản.[13] Năm 2011 và 2012, các đĩa đơn "Roly-Poly", "Cry Cry", "We Were in Love", "Lovey-Dovey" và "Day by Day" đều nằm trong Top 2 ở bảng xếp hạng âm nhạc GaonKorea K-Pop Hot 100. Trong đó, "Roly-Poly" giúp T-ara mang về 2 triệu USD doanh thu và là bài hát có lượt tải kỹ thuật số lớn nhất trong lịch sử của Gaon với 4 triệu lượt tải trong năm.[note 2]

Trong thời gian hoạt động, nhóm đã bổ sung thêm hai thành viên là Hwayoung vào tháng 7 năm 2010 và Areum vào tháng 6 năm 2012. Thành viên thứ chín Dani đã được lên kế hoạch gia nhập nhóm, tuy nhiên vấn đề này đã bị trì hoãn vô thời hạn do cô chưa "sẳn sàng" để ra mắt và rồi cô được gán vào nhóm nhỏ T-ara N4;[14][15] Sau đó, Hwayoung rời nhóm vào tháng 7 năm 2012 do scandal giữa cô và T-ara,[16] còn Areum rời nhóm vào tháng 7 năm 2013 để theo đuổi sự nghiệp hát đơn. T-ara là nhóm nhạc không có nhóm trưởng cụ thể mà các thành viên sẽ luân phiên thay đổi theo thời gian,[17] trưởng nhóm hiện tại của nhóm là Qri.[4][18][19][20]

Tính đến năm 2015, T-ara bán được 36 triệu bản, trở thành một trong những nhóm nhạc nữ Hàn Quốc có đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Họ cũng được xem là một trong các nhóm nhạc nữ K-pop nổi tiếng nhất tại Trung Quốc. Cuối tháng 12 năm 2017, bốn thành viên cuối cùng của T-ara chính thức rời khỏi công ty quản lý MBK Entertainment, sau sự ra đi trước đó của hai thành viên Boram và Soyeon vào tháng 5. Từ đây, Qri, Eunjung, Hyomin và Jiyeon có thể hoạt động với tư cách là thành viên của T-ara sau khi nhóm đã thắng kiện trước công ty quản lý MBK Entertaimant về tranh chấp bản quyền thương hiệu "T-ara".

Tháng 11 năm 2021, T-ara ra mắt EP Re:T-ara dưới sự hỗ trợ của công ty truyền thông Dingo, đây là lần trở lại sau 4 năm kể từ EP trước đó, What's My Name? năm 2017 dưới tư cách là một nhóm nhạc độc lập.[21]

  1. ^ Đức Kiên (6 tháng 10 năm 2015). “T-ara được thiếu gia giàu nhất Trung Quốc "sủng ái". Dân Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  2. ^ a b c d e Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên stylemusic22
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SugarFree
  4. ^ a b 황미현 (17 tháng 8 năm 2015). “A detailed analysis of T-ara's immense popularity in China” (bằng tiếng Hàn). JoongAng Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  5. ^ Kata, Redaksi Lingua. Bản sao đã lưu trữ. Lingua Kata. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2022. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=|access-date= (trợ giúp)
  6. ^ Mark, Russell. Bản sao đã lưu trữ. Tuttle. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2022. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=|access-date= (trợ giúp)
  7. ^ キネマ旬報社, キネマ旬報社 (2011). Bản sao đã lưu trữ. キネマ旬報社. tr. 96 trang. ISBN 4873767407. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=|access-date= (trợ giúp)
  8. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên hankyung
  9. ^ Lee Jae-hwan (3 tháng 6 năm 2009). “전영록 딸 전보람, 티아라 새 멤버 합류! '가수 3대 집안' (T-ara gets a new member)” (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  10. ^ “베일 벗은 티아라 첫 무대, 걸그룹 판도 바꿀까?” (bằng tiếng Hàn). BNT News. 30 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên JRock
  12. ^ Jeon-won (7 tháng 6 năm 2011). “티아라, 50억 근접 역대 최고가 전속계약..일본 J-ROCK과 47억” (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  13. ^ Stewart Ho (15 tháng 10 năm 2012). “T-ara and SNSD′s Latest Albums Certified Gold in Japan” (bằng tiếng Anh). Mwave. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  14. ^ “티아라 아름 탈퇴 솔로전향, 티아라엔포 다니 합류” (bằng tiếng Hàn). Nate. 10 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  15. ^ Lee, JinHo (27 tháng 7 năm 2012). “[Concert Review] T-ara Leads Budokan Concert to a Success” (bằng tiếng Anh). Mwave. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  16. ^ Thị Phi (30 tháng 7 năm 2012). “Hwayoung bị buộc rời nhóm T-ara”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  17. ^ Kim Ji-yeon (16 tháng 7 năm 2010). “티아라, 은정→보람 리더 교체 왜?” (bằng tiếng Hàn). Starnews. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  18. ^ Kim Dong-Joo. “T-ara's China debut becoming a hot issue” (bằng tiếng Anh). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  19. ^ "거품 뺀 담백한 곡... 팬들 소중함 다시 느껴" (bằng tiếng Hàn). Naver. 13 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ “티아라, 중국에서 잘나가는 이유?” (bằng tiếng Hàn). Naver. 17 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  21. ^ Mỹ Khanh (8 tháng 11 năm 2021). “T-ara xác nhận comeback sau 4 năm”. Thanh niên. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2022.


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “note”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="note"/> tương ứng


From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Nelliwinne