![]() Tàu sân bay hộ tống USS Salamaua (CVE-96) ngoài khơi San Francisco, khoảng năm 1945
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS Salamaua (CVE-96) |
Đặt tên theo | Chiến dịch Salamaua-Lae, tháng 4-tháng 9 năm 1943 |
Xưởng đóng tàu | Kaiser Shipyards, Vancouver, Washington |
Đặt lườn | 4 tháng 2 năm 1944 |
Hạ thủy | 22 tháng 4 năm 1944 |
Người đỡ đầu | bà W. J. Mullins |
Nhập biên chế | 26 tháng 5 năm 1944 |
Xuất biên chế | 9 tháng 5 năm 1946 |
Xóa đăng bạ | 21 tháng 5 năm 1946 |
Danh hiệu và phong tặng | 3 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 18 tháng 11 năm 1946 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu sân bay hộ tống Casablanca |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 512 ft 4 in (156,16 m) (chung) |
Sườn ngang |
|
Mớn nước | 22 ft 6 in (6,86 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Tầm xa | 10.240 nmi (18.960 km; 11.780 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo | 28 máy bay |
USS Salamaua (CVE-96) là một tàu sân bay hộ tống lớp Casablanca được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo thị trấn nhỏ Salamaua trên bờ biển phía Bắc Papua New Guinea, nơi diễn ra các trận chiến từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1943. Salamaua đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, được cho xuất biên chế và bị bán để tháo dỡ năm 1946. Nó được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.