Tàu ngầm USS Salmon (SS-182), năm 1938
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Salmon |
Đặt tên theo | cá hồi [1] |
Xưởng đóng tàu | Electric Boat Company, Groton, Connecticut[2] |
Đặt lườn | 15 tháng 4, 1936 [2] |
Hạ thủy | 12 tháng 6, 1937 [2] |
Người đỡ đầu | cô Hester Laning |
Nhập biên chế | 15 tháng 3, 1938 [2] |
Xuất biên chế | 24 tháng 9, 1945 [2] |
Xóa đăng bạ | 11 tháng 10, 1945 [2] |
Danh hiệu và phong tặng | |
Số phận | |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp Salmon [3] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 308 ft (94 m) [4] |
Sườn ngang | 26 ft 1 in (7,95 m) [4] |
Mớn nước | 15 ft 8 in (4,78 m) [4] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) [4] |
Tầm hoạt động | 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) [4] |
Độ sâu thử nghiệm | 250 ft (80 m) [4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 5 sĩ quan, 54 thủy thủ (thời bình) [4] |
Vũ khí |
|
USS Salmon (SS-182) là một tàu ngầm, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá hồi.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, thực hiện tổng cộng mười một chuyến tuần tra, đánh chìm bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 24.107 tấn đồng thời chia sẻ1/3 chiến công đánh chìm một tàu khác tải trọng 10.500 tấn.[7] Sau khi bị hư hại nặng và được sửa chữa vào cuối năm 1944, con tàu được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện, và ngừng hoạt động ngay sau khi xung đột chấm dứt, rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946. Salmon được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên DANFS
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên JANAC