Tàu ngầm USS Sargo (SS-188) đang chạy thử máy ngoài khơi Provincetown, Massachusetts, ngày 1 tháng 11 năm 1938
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Sargo (SS-188) |
Đặt tên theo | cá tráp trắng [1] |
Xưởng đóng tàu | Electric Boat Company, Groton, Connecticut [2] |
Đặt lườn | 12 tháng 5, 1937 [2] |
Hạ thủy | 6 tháng 6, 1938 [2] |
Người đỡ đầu | bà Catherine V. Nimitz |
Nhập biên chế | 7 tháng 2, 1939 [2] |
Xuất biên chế | 22 tháng 6, 1946 [2] |
Xóa đăng bạ | 19 tháng 7, 1946 [2] |
Danh hiệu và phong tặng | |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 19 tháng 5, 1947 [2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Sargo |
Kiểu tàu | tàu ngầm tổ hợp dẫn động trực tiếp và diesel-điện [4] |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 310 ft 6 in (94,64 m) [5] |
Sườn ngang | 26 ft 10 in (8,18 m) [5] |
Mớn nước | 16 ft 8 in (5,08 m) [5] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5] |
Tầm hoạt động | 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5] |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 5 sĩ quan, 54 thủy thủ[5] |
Vũ khí |
|
USS Sargo (SS-188) là một tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu của tàu ngầm lớp Sargo, được chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá tráp trắng.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra và đánh chìm bảy tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 32.777 tấn.[8] Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào năm 1946. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1947. Sargo được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận cùng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippines do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên DANFS
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên JANAC