![]() Tàu sân bay trực thăng USS Thetis Bay (LPH-6), khoảng năm 1963
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS Thetis Bay (CVE-90) |
Đặt tên theo | vịnh Thetis, đảo Kuiu, quần đảo Alexander, Alaska |
Xưởng đóng tàu | Kaiser Shipyards, Vancouver, Washington |
Đặt lườn | 22 tháng 12 năm 1943 |
Hạ thủy | 16 tháng 3 năm 1944 |
Người đỡ đầu | bà Ricco Botta |
Nhập biên chế | 12 tháng 4 năm 1944 |
Tái biên chế | 20 tháng 7 năm 1956 |
Xuất biên chế | |
Xếp lớp lại |
|
Xóa đăng bạ | 1 tháng 3 năm 1964 |
Danh hiệu và phong tặng | 1 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Bán để tháo dỡ, tháng 12 năm 1964 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu sân bay hộ tống Casablanca |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 512 ft 4 in (156,16 m) (chung) |
Sườn ngang |
|
Mớn nước | 22 ft 6 in (6,86 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Tầm xa | 10.240 nmi (18.960 km; 11.780 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo | 28 máy bay |
USS Thetis Bay (CVE-90/CVHA-1/LPH-6) là một tàu sân bay hộ tống lớp Casablanca được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo tên một vịnh nhỏ ở bờ Nam vịnh Tebenkof, trên bờ biển phía Tây đảo Kuiu thuộc quần đảo Alexander, Alaska.[1] Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, xuất biên chế năm 1946; rồi được cải biến thành một tàu sân bay chở máy bay trực thăng và nhập biên chế trở lại năm 1955, tiếp tục phục vụ cho đến khi ngừng hoạt động và bị bán để tháo dỡ năm 1964. Nó là chiếc tàu cuối cùng thuộc lớp Casablanca bị tháo dỡ. Thetis Bay được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.