Tàu tuần dương USS Helena ngoài khơi Nam Thái Bình Dương, 1943
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Helena |
Đặt tên theo | Helena, Montana |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân New York |
Đặt lườn | 9 tháng 12 năm 1936 |
Hạ thủy | 27 tháng 8 năm 1939 |
Người đỡ đầu | cô Elinor Carlyle Gudger |
Nhập biên chế | 18 tháng 9 năm 1939 |
Danh hiệu và phong tặng | |
Số phận | Bị đánh chìm trong Trận chiến vịnh Kula, 6 tháng 7 năm 1943 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | phân lớp St. Louis của lớp Brooklyn |
Kiểu tàu | Tàu tuần dương hạng nhẹ |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 62 ft (19 m) |
Mớn nước | 23 ft (7,0 m) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph) |
Tầm xa | 10.000 nmi (18.520 km; 11.510 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 868 |
Vũ khí |
|
Bọc giáp | |
Máy bay mang theo | 4 × thủy phi cơ |
Hệ thống phóng máy bay | 2 × máy phóng |
USS Helena (CL-50) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc phân lớp St. Louis của lớp Brooklyn của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, theo tên thành phố Helena thuộc tiểu bang Montana. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó từng bị hư hại trong vụ Tấn công Trân Châu Cảng, rồi sau đó hoạt động tích cực tại Mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi bị đánh chìm trong Trận chiến vịnh Kula vào ngày 6 tháng 7 năm 1943. Helena là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được trao tặng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân, đồng thời được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận.